Cải tạo vận mệnh từ các con số trong phong thủy
Các con số đứng riêng rẽ hình thành nên những ý nghĩa khác nhau bao hàm sự tốt xấu, may mắn hay tai hoạ.
Quy luật Âm Dương chúng ta tạm hiểu đó là sự tương hỗ và tồn tại của nguồn năng lượng hình thành nên thể chất và lý tính của mọi vật. Ngũ Hành là quy luật ức chế và kích thích sự vật vận động và phát triển. Khi kết hợp với nhau nó cũng hình thành một ý nghĩa khác bao hàm sự tốt xấu nhưng lúc này ý nghĩa của từng con số không còn cứng nhắc mà mang sắc thái bổ trợ , tác dụng lẫn nhau hình thành nên tính chất tốt xấu cho cả dãy số. Ví dụ : Số 1 tượng là sao Nhất Bạch thuộc hành Thuỷ, theo Hậu Thiên bát Quái thì tượng của nó tượng trưng cho quẻ Khảm chủ về công danh nghề nghiệp, tượng trưng cho trí tuệ , sự nhất quán, sự phát triển và danh tiếng. Số 8 theo Hậu Thiên bát Quái thì tượng của nó là sao Bát Bạch thuộc hành Thổ, tượng trưng cho quẻ Cấn chủ về kiến thức, sự thông minh, tiền bạc và lợi ích do sự ổn định mang lại. Ở vận này thì 2 số này đều vượng khí tức là tốt lành bởi hàm chứa những năng lượng vận động tích cực. Khi xét riêng rẽ phải căn cứ vào ý nghĩa hậu Thiên của từng con số, đó chính là chín sao của Huyền Không Đại quái.
Khi kết hợp lại thì có thể là 18 hoặc 81 ta sẽ đi vào phân tích xem hai số trên ý nghĩa thế nào :
– Số 81 : số 8 kết hợp với số 1 đi sau tượng trưng cho sự vận động thuận lý (tiến), như vậy hàm chứa sự tốt lành. Chia số trên thành hai nửa thì nửa trước là 8 , theo đồ hình Tiên Thiên Bát Quái tượng quẻ Khôn; nửa sau là 1 , theo đồ hình Tiên Thiên Bát Quái tượng quẻ Càn. Khôn ở trên càn ở dưới hai quẻ kết hợp với nhau thành quẻ kép Địa Thiên Thái chỉ thời vận hanh thông, vạn vật được khai mở phát triển, phúc lành đang đến. Về Ngũ Hành đó là sự tương sinh bởi Khôn Thổ sinh cho Càn Kim. Bởi vậy số 81 là số rất tốt lành về mọi mặt. Người phương Đông luôn tôn thờ số này và trong khoa học hiện đại cũng chỉ ra đó là con số vũ trụ ứng với nhiều đại lượng đo đếm trong vũ trụ. Số này có 8 là số Âm, 1 là số Dương như vậy hàm nghĩa Âm Dương cân bằng, bởi vận vật chỉ phải triển khi ở thế Âm Dương cân bằng, nếu mất cân bằng thì sẽ có xu hướng tiêu cực. Ví dụ, biển xe là 1357 là số toàn Dương nên không thể tốt được.
– Số 18 : Với luận lý tương tự như trên thì số này Càn 1 ở trên, Khôn 8 ở dưới nên tượng quẻ là Thiên Địa Bỉ chỉ thời vận đã suy vi, sự thịnh vượng nhường chỗ cho sự khó khăn suy thoái bởi theo triết lý Đông Phương, mọi vận là vô thường, vận động hết thịnh lại đến suy luôn luôn thay đổi.
– Trong 1 dãy số thì ngũ hành của dãy luôn được xem xét là ngũ hành chủ đạo chi phối dãy số đó bởi trong một dãy có thể tồn tại nhiều loại ngũ hành, chúng khắc chế lẫn nhau. Ngũ hành chủ đạo luôn là số cuối hoặc nếu có nhiều số cùng tồn tại thì lấy ngũ hành số đó làm chuẩn. Ví dụ 81 thuộc Thuỷ, 18 thuộc Thổ.
Các nguyên lý xem xét cho một dãy số đẹp hay xấu :
– Phải có nhiều số vượng khí như 1,8,9,0 bới các số này trong vận 8 là sinh khí, tiến khí, vượng khí sẽ đem lại nhiều may mắn tốt lành.
– Phải có sự tương sinh về ngũ hành tránh sự tương khắc, ví dụ 3388 là sự tương khắc vì 3 Bích Mộc khắc 8 Bạch Thổ.
– Ngũ hành của dãy số phải tương sinh cho mệnh người sử dụng. Ví dụ số 0912479988 ngũ hành thuộc Thổ sinh trợ cho người mệnh Thổ, Kim
– Âm dương phải cân bằng nghĩa là phải có cả số Dương, số Âm (chẵn, lẻ) hoặc lý tưởng nhất là hai loại có số lượng bằng nhau.
– Ý nghĩa quẻ kép Bát Quái kết hợp lại phải tốt lành tránh những quẻ xấu như quẻ Thiên Địa Bĩ
– Các số vận hành nên theo chiều thuận lý, theo quan niệm thông thường ta gọi là số tiến, tránh số ngược , Ví dụ : 8876.
Trong vũ trụ nói chung và trái đất nói riêng, hai khí Âm Dương vận động hình thành nên vạn vật hay thế giới vật chất được hình thành nên từ hai khí Âm và Dương. Người xưa phân chia một cách tương đối thế giới vật chất thành 5 loại vật chất biểu kiến, gọi là Ngũ Hành bao gồm : Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.
Học thuyết Ngũ Hành là một trong những học thuyết cơ bản nhất của nền văn hoá thần bí Trung Hoa. Học thuyết Ngũ Hành được sáng tạo và vận dụng thể hiện một cách đầy đủ nhất và rõ ràng nhất trong tác phẩm Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn. Một tác phẩm về Y Học Cổ Đại đã dùng học thuyết Ngũ Hành để vận dụng vào việc chữa bệnh. Tác phẩm này đã ra đời cách đây khoảng 3000 năm trước công nguyên. Như vậy, có thể nói học thuyết này được hình thành trước cả sự ra đời của Kinh Dịch.
Nội dung cơ bản của Học thuyết Ngũ Hành là mối liên hệ biện chứng duy vật giữa các sự vật hiện tượng trong giới tự nhiên. Năm loại vật chất này vận động, chuyển hoá và tác động lẫn nhau hình thành nên thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Ngũ Hành vừa có tác động thúc đẩy, vừa có tác động ức chế lẫn nhau hình thành nên một vũ trụ luôn luôn vận động theo hình xuáy trôn ốc giống như quan điểm vật chất luôn vận động trong triết học Mác-Lênin. Nó có ứng dụng rộng rãi trên mọi lĩnh vực khoa học và đời sống.
Đặc tính ngũ hành được khái quát như sau :
+ Mộc : Là cây cỏ, gỗ nói chung, có tính chất sinh sôi, dài thẳng. Khí của Mộc làm cho vạn vật được tươi tốt.
+ Hoả : Là lửa, ánh sáng, có tính chất nóng hướng lên trên. Khí của Hoả làm cho vạn vật sinh trưởng, dồi dào.
+ Thổ : Là đất đai, có tính chất nuôi lớn, hoá dục. Khí của Thổ làm cho vạn vật được đầy đủ hình thể.
+ Kim : Là kim loại, có tính chất yên tĩnh, thu tàng. Khí của Kim làm cho vạn vật kết quả.
+ Thuỷ : Là nước, có tính chất hàn lạnh hướng xuống. Làm cho vạn vật tĩnh lặng, bế tàng.
Ngũ Hành tuân theo những quy luận vận động nhất định, có hai quan hệ giữa các Hành, đó là quan hệ tương sinh và tương khắc, tiêu biểu cho quá trình thúc đẩy, chuyển hoá và ức chế lẫn nhau của vật chất.
Tương sinh có nghĩa là cùng bồi bổ, thúc đẩy, trợ giúp cho nhau : Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản về quy luật Ngũ Hành tương sinh như sau : Cây cỏ khi bị đốt chy sinh ra lửa, như vậy là Mộc sinh Hoả. Hoả khi bị đốt cháy sẽ biến thành tro, tro lại trở về thành đất. Như vậy là Hoả sinh Thổ. Đất đai nuôi dưỡng trong mình nó những quặng kim loại. Như vậy là Thổ sinh Kim. Kim loại khi bị nung chảy thì biến thành nước phản ảnh quy luật Kim sinh Thuỷ. Thuỷ là nước lại tưới nuôi dưỡng cây, đó là Thuỷ sinh Mộc.
Tương khắc là chế ngự khống chế lẫn nhau: Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hỏa, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc.
Ta có thể hiểu một cách đơn giản về quy luật Ngũ Hành tương khắc như sau : Cây cỏ sống dựa vào đất, hút hết màu mỡ và tinh tuý của đất để phát triển phản ánh quy luật Mộc khắc Thổ. Đất dùng để ngăn đê, đắp đập chống lại nước. Như vậy là Thổ khắc Thuỷ. Nước dùng để dập tắt lửa phản ánh quy luật Thuỷ khắc Hoả. Lửa nấu chảy kim loại nên Hoả khắc Kim. Kim loại lại chế ra dụng cụ chặt cây cối nên Kim khắc Mộc.
Ngoài ra còn một số yếu tố khác mà những người am tường về Âm Dương Ngũ hành mới quán xét được mà trong phạm vi trang web này chúng tôi chỉ giới thiệu đại cương để bạn đọc nắm vững cơ bản.Trên đây chỉ là những mô tả rất đơn giản, thực tế Ngũ Hành tượng trưng cho năm loại vật chất trong vũ trụ, những quy luật tương sinh tương khắc phản ánh quá trình tương tác của thế giới vật chất. Mặc dù thế giới vật chất vốn bao la, vô cùng vô tận nhưng người xưa lại có thể phân chia và phát hiện ra những quy luật chi phối, điều đó quả là kỳ diệu.
Cùng Danh Mục
Vì quyền lợi của Bạn:
» Tham khảo Chính sách Đảm Bảo về Giám Định Đá Quý…
» Tham khảo cách phân biệt vật phẩm thật giả, loại 1 và 3…